Chất Phát Quang dùng trong đồng hồ: Radium vs Superluminova
Đã bao giờ bạn nghĩ, cái gì làm cho đồng hồ phát sáng trong bóng tối chưa?
Đây là một chủ đề đầy màu sắc và khá mơ hồ trong lịch sử. Bắt đầu từ những năm đầu thế kỷ 20, khoảng năm 1910, khi một vài công ty bắt đầu sử dụng radium trên mặt số đồng hồ cao cấp và các kim để tạo hiệu ứng phát sáng trong tối.
Radium được phát hiện bởi Marie và Pierre Curie vào năm 1898. Marie Curie phát hiện ra một ống đựng radium phát ra ánh sáng như “cổ tích trong bóng tối” và cô giữ một lọ nhỏ ở bên cạnh giường ngủ làm ánh sáng ban đêm. Marie lại tiếp tục khám phá ra, radium không phải tự thân nó phát sáng, mà tự sự ion hóa các vật liệu xung quanh radium, khi mà sự ion hóa diễn ra thì tạo ra ánh sáng.
Các công ty đồng hồ đã thêm vật liệu này sơn lên các cọc số và kim đồng hồ, để chúng phát sáng khi ở môi trường tối. Mục đích của việc làm này giúp người đeo xem được giờ ngoài trời tối hoặc ở môi trường thiếu ánh sáng, thời gian vẫn được nhận biết. Cuộc cách mạng công nghiệp này đã tạo nên sự ngạc nhiên lớn cho cả khoa học và nhân loại. Không cần phải lắng nghe tiếng chuông báo giờ vào mỗi buổi tối và cả việc phải để ý đến đồng hồ quả lắc. Như tất cả các phát minh “công nghệ” mới, nó đã tạo nên trào lưu thời trang cho những người muốn sở hữu đồng hồ. Và lẽ dĩ nhiên, tất cả các công ty đồng hồ bắt đầu sự tiến bộ công nghệ này vào những chiếc đồng hồ của họ. Cũng như ngày nay, sẽ không ai mua xe hơi nếu không có điều hòa?
Nếu bạn nhìn vào một chiếc đồng hồ cổ điển, trước năm 1950, bạn có thể nhìn thấy một lớp sơn màu trắng hoặc vàng trên các chữ số chỉ giờ và các kim đồng hồ. Chất liệu này là một hỗn hợp keo, giữa phốt pho và radium. Những năm đầu 1900, radium ban đầu được coi là liều thuốc thần kỳ và giải quyết được nhiều vấn đề về sức khỏe. Radium được hòa tan trong nước và bán như một loại thuốc bổ và được sử dụng để tăng năng lượng và chữa các căn bệnh.
Radium được sơn trên các kim và cọc số của đồng hồ bởi công nhân trong các nhà máy sản xuất, họ thường thuê phụ nữ và trẻ em làm công việc này. Họ được hướng dẫn kỹ thuật bằng cách ngậm bàn chải để vẽ được những nét đẹp trên đồng hồ. Phụ nữ trộn lẫn chất keo với raidum và trét hỗn hợp lên bàn chải lông lạc đà. Sau một vài nét vẽ, bàn chải bị mất hình dạng ban đầu, đầu bút nhọn, các cô gái không thể vẽ chính xác, do đó họ lướt đầu bút qua lưỡi sau vài mặt số được vẽ. Thật không may, vào thời điểm này trong lịch sử, xã hội vẫn còn hiểu biết hạn chế về những nguy hiểm mà chất phóng xạ có thể gây ra. Những người phụ nữ này bắt đầu ốm nặng, nhiều người trong số họ đã bị chết. Chuyện kể rằng, họ còn dùng nó để sơn răng và móng tay. Một số còn sử dụng trang điểm cho khuôn mặt để gây ngạc nhiên cho bạn bè, bạn trai. Cũng có thể từ nguyên nhân này mà xuất hiện câu nói: Khi cô ấy bước vào phòng thì cả căn phòng rực sáng.
Radium sẽ phát sáng cả đêm. Hiện tượng này kéo dài trong nhiều năm, có khi đến 50 năm.
Cuối cùng, vào những năm 50, những nguy hiểm cho sức khỏe bởi radium đã được chấp nhận rộng rãi ở Mỹ, nó bị loại bỏ là nguồn chiếu sáng cho đồng hồ, mặc dù thực tế thì vẫn tiếp tục được sử dụng, ở một mức độ thấp hơn, và Quân đội vẫn sử dụng loại vật liệu này. Hậu quả từ giai đoạn lịch sử này là những người phụ nữ bị bệnh đã gây áp lực chính trị buộc các công ty đồng hồ kết thúc việc sử dụng radium trên sản phẩm của họ. Lúc đầu các công ty chống lại bất kỳ các nhận định nào về nguyên nhân và tác động của chất phóng xạ độc hại được sử dụng trên mặt số đồng hồ bởi radium. Họ che đậy vấn đề sức khỏe của người lao động, trì hoãn các khiếu nại về bệnh tật, cũng như buộc các bác sĩ của công ty im lặng về việc cảnh báo các vấn đề sức khỏe của thợ sơn radirum. Người ta nói rằng, một số phụ nữ khi thở bằng mũi, khăn bịt của họ sáng lên trong bóng tối.Tệ hơn nữa, lượng dư thừa được sử dụng làm hố cát cho trẻ em chơi đùa. Khi các công ty đồng hồ phải đối mặt với sự hiểu biết là cát này là chất độc hại, họ phản ứng lại bằng việc giải thích nó có lợi cho trẻ em giống như việc tắm bùn chữa bệnh nổi tiếng tại các spa y tế.
Việc tìm kiếm các loại vật liệu thân thiện hơn với sức khỏe mà phát sáng được trong tối vẫn còn đang tiếp diễn. Một vài loại vật liệu hiện đại có thể làm được việc trên phát sáng từ 10 đến 15 giờ sau khi tiếp xúc với ánh sáng. Nguồn ánh sáng mới xung quanh mang đến nhiều hứa hẹn. Loại vật liệu mới nhất được sử dụng cho mặt số đồng hồ và các kim với tên gọi SuperLumiNova. Hiệu ứng phát sáng được tạo ra khi các vật liệu bị kích thích bởi tia cực tím hoặc ánh sáng tím. Nguyên liệu tích tụ ánh sáng để phát ra ánh sáng từ các bộ phận được phủ SuperLumiNova trên mặt đồng hồ.
Tập đoàn Swatch đã sử dụng độc quyền vật liệu này cho các sản phẩm đồng hồ của họ từ năm 1977. Công ty này mô tả tính năng phát sáng như một pin ánh sáng. So sánh với radium, độ sáng giảm 90% sau một giờ. Tuy nhiên nó vẫn phát sáng yếu ớt trong khoảng 6 giờ, vẫn có thể nhìn thấy được trong bóng tối, mặc dù không phải sáng như vật liệu phát sáng tiền nhiệm là radium. Vì không có sự nguy hại cho sức khỏe nên Super-LumiNova rất được ưa thích trong các sản phẩm đồng hồ hiện đại. Một loại vật liệu tương tự được sử dụng trên các đồng hồ Seiko là LumiBrite.
Vào khoảng thời gian những năm 1950, 1960, với nhận thức rằng Radium đã không còn là vật liệu sử dụng cho các mặt số đồng hồ, ngành công nghiệp này đã sử dụng vật liệu thay thế để đạt được kết quả như mong đợi. Các hợp chất phốt pho không phóng xạ được thử nghiệm nhưng không mang lại kết quả tối ưu. Tritium được giới thiệu là chất thay thế tốt thay cho radium, là loại vật liệu khá an toàn khỏi các tác hại cho hô hấp, tiêu hóa, sự hấp thụ da. Tritium có chu kỳ bán rã khoảng 12 năm, cần được sơn lại đều đặn trên mặt số đồng hồ và các kim để chắc chắn đồng hồ phát sáng trong tối. Từ những năm đầu 1900, những nhà sản xuất đồng hồ cũng bắt đầu loại bỏ Tritium trong sản xuất đồng hồ. Mặt dù so với Radium mức độ nguy hại gây ra bởi Tritium là nhẹ, nhưng Tritium vẫn là chất phóng xạ. Một số báo cáo cho rằng việc đeo đồng hồ có sơn Tritium trên mặt số trong vài ngày có thể làm cho Tritium khếch tán qua vỏ và ngấm vào da. Một vài quốc gia đã kiểm soát chặt chẽ việc nhập khẩu chất phóng xạ, điều này ảnh hưởng rất lớn đến ngành công nghiệp đồng hồ.
Sử dụng chất phát sáng trên đồng hồ dường như là bước tiến nhảy vọt. Khi lần đầu được giới thiệu, ánh sáng đèn chỉ phổ biến ở các thành phố, vì vậy sự đóng góp ánh sáng của những chiếc đồng hồ làm cho cảnh tượng trở nên đẹp hơn rất nhiều. Ngày nay, với mọi thứ trong xã hội không ngừng được thắp sáng như cây thông noel, mỗi chiếc đồng hồ cao cấp phát sáng như giá trị tăng thêm, không nhất thiết nó phải là một chức năng trừ khi bạn muốn xem giờ trên đồng hồ của mình trong suốt đêm. Một thiết kế đồng hồ bình thường sẽ thú vị hơn nhiều nếu được thêm màu sắc phát sáng trên mặt số và các kim. Có thể, một lúc nào đó bạn sẽ phải thốt lên “Nó thật Cool” hay “Này các cậu, nhìn xem, thật tuyệt” khi mặt đồng hồ sáng lên trong tủ quần áo tối thui, hay khi vừa bước vào nhà khi chưa bật điện.